Thủy sản toàn cầu linh hoạt ứng phó thuế đối ứng Mỹ

Tận dụng cơ hội

Ngoài các sản phẩm được bảo vệ theo Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (USMCA), mức thuế tối thiểu 10% mới của Mỹ, cùng với các mức thuế đối ứng theo từng quốc gia (đã tạm dừng đối với tất cả các quốc gia ngoài Trung Quốc) đã đưa tỷ lệ thuế trung bình đối với hàng nhập khẩu vào Mỹ lên mức cao nhất kể từ sau Thế chiến II, theo dữ liệu từ Ủy ban Thương mại Quốc tế (ITC). ICT cho biết, Mỹ duy trì lệnh tạm hoãn thuế quan 90 ngày, trong khi tỷ lệ thuế cơ bản 10% vẫn không thay đổi.

Tuy nhiên, quyết định tạm hoãn áp thuế đang tạo hiệu ứng tích cực lên thị trường thủy sản, các đơn hàng bắt đầu tăng trở lại. Nhật Bản gấp rút xuất khẩu sò điệp và các mặt hàng khác sang Mỹ. Doanh nghiệp Ấn Độ tích cực vận động chính phủ can thiệp để Mỹ đã tạm hoãn áp dụng mức thuế bổ sung 26% vào tháng 4/2025, tạo điều kiện cho Ấn Độ xuất khẩu khoảng 40.000 tấn tôm sang Mỹ trong quý II/2025. Thái Lan và Hàn Quốc sẽ sớm khởi động các cuộc đàm phán. Liên minh châu Âu tạm thời đình chỉ thuế trả đũa Mỹ trong 90 ngày.

Theo bà Julia Spies, Giám đốc Thương mại và Thị trường tại Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) ở Thụy Sĩ, Mỹ thay đổi chính sách thương mại có thể tạo ra những cú sốc lớn cho thị trường. Do đó, các doanh nghiệp nên tập trung đẩy nhanh các lô hàng còn đang trong quá trình trung chuyển, vận chuyển đến quốc gia nhập khẩu cuối cùng, ít nhất là trong 90 ngày tới để hạn chế tối đa rủi ro bị áp thuế cao. Đồng thời, tích cực chủ động mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác như Trung Đông, châu Á.

Tái cấu trúc thị trường

Mức thuế 145% đối với cá rô phi Trung Quốc khiến thị trường “rối loạn” khi một số nhà nhập khẩu Mỹ “ôm” hàng tồn kho, còn những hãng khác tìm cách chuyển sang nguồn cung thay thế. Giá cá da trơn Trung Quốc đã tăng ngay lập tức do thiếu nguồn cung thay thế trong khi giá cá tra Việt Nam cũng nhích lên. Thị trường cá đáy, đặc biệt là cá tuyết, cá minh thái và cá bơn từ Trung Quốc, đang chịu áp lực lớn khi hàng tồn kho giảm và khó tìm kiếm nguồn thay thế.

Trước tình hình trên, thủy sản Mexico đã chuyển hướng khỏi thị trường Mỹ, Trung Quốc, châu Âu và một số quốc gia Mỹ Latinh sang Canada, Brazil và Ấn Độ, theo báo cáo của ITC. Tương tự, Việt Nam cũng đang giảm xuất khẩu sang Mỹ và đẩy mạnh vào các thị trường Trung Đông, Bắc Phi (MENA), châu Âu, Hàn Quốc. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ ở các quốc gia kém phát triển sẽ gặp khó khăn về chi phí trong quá trình chuyến hướng này, theo ITC.

Tại Ấn Độ, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu tôm đang nỗ lực đa dạng hóa thị trường, mở rộng sang Trung Quốc, Nga và Canada. Hãng thủy sản Coastal Corporation cho biết một số khách hàng Mỹ sẵn sàng chấp nhận mức thuế cao hơn, nhưng công ty vẫn mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác để giảm phụ thuộc vào Mỹ. Bên cạnh đó, Hiệp hội Xuất khẩu Thủy sản Ấn Độ cũng vận động chính phủ Mỹ xem xét miễn thuế cho tôm Ấn Độ, đồng thời tìm kiếm các giải pháp lâu dài để giảm thiểu tác động của thuế quan.

Ngành tôm hùm Canada kêu gọi chính phủ và các tổ chức liên quan hỗ trợ để giảm thiểu tác động của thuế đối ứng. Theo Hội đồng Thủy sản Canada, thuế đối ứng 25% có thể khiến sản phẩm tôm hùm Canada không còn khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Thủ tướng Canada, ông Justin Trudeau, đã tuyên bố tăng cường các mối quan hệ thương mại với các quốc gia khác, đặc biệt là châu Âu và châu Á. Doanh nghiệp Canada cũng phát triển thêm các sản phẩm chế biến như: Tôm hùm đông lạnh, thịt tôm hùm đóng gói sẵn và các sản phẩm ăn liền hoặc chế biến nhẹ, nhằm tăng giá trị gia tăng và mở rộng đối tượng tiêu dùng.

Theo Hiệp hội Xuất khẩu Thực phẩm Đông lạnh Bangladesh (BFFEA), Bangladesh đã xuất khẩu khoảng 10.000–12.000 tấn tôm sang Mỹ trong năm 2024. Tuy nhiên, việc Mỹ áp dụng thuế đối ứng 37% đối với tôm nhập khẩu đã làm tăng giá tôm Bangladesh tại thị trường Mỹ, kéo theo nguy cơ mất thị phần. Để đối phó, Bangladesh đang tìm kiếm các thị trường thay thế như châu Âu và Trung Đông. Ngoài ra, nước này cũng kỳ vọng thúc đẩy xuất khẩu tôm sú sang Trung Quốc sau khi được quốc này miễn thuế 100% từ ngày 1/12/2024.

Các nước xuất khẩu thủy sản đang chủ động ứng phó thuế đối ứng của Mỹ bằng đàm phán, rà soát thuế, tận dụng ưu đãi và đa dạng thị trường. Những biện pháp này giúp giảm tác động tiêu cực và giữ đà phát triển bền vững.

Đàm phán và xúc tiến thương mại

Mexico, một đối tác thương mại chủ chốt của Mỹ tại Bắc Mỹ, đã quyết định thông qua Hiệp định Thương mại Mỹ-Mexico-Canada (USMCA), để đàm phán nhằm đảm bảo các sản phẩm thủy sản, đặc biệt là tôm và cá, được hưởng những ưu đãi thuế quan tốt.

Trong khi đó, Ấn Độ chủ động tìm kiếm các thỏa thuận thương mại mới, đồng thời cắt giảm thuế cho các sản phẩm quan trọng. Chính phủ Ấn Độ đã cử Bộ trưởng Thương mại Piyush Goyal sang Mỹ để đàm phán về các biện pháp giảm thuế. Ấn Độ cũng đặt mục tiêu tăng trưởng thương mại song phương lên 500 tỷ USD vào năm 2030.

Ecuador quyết định giảm thuế nhập khẩu tôm từ Mỹ xuống 30% nhằm giảm thiểu tác động của thuế đối ứng mà Mỹ áp dụng đối với tôm Ecuador. Đây là một biện pháp quan trọng giúp duy trì dòng chảy thương mại giữa hai quốc gia và tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu các sản phẩm tôm.

Malaysia, với vai trò Chủ tịch ASEAN, đã thảo luận với các nước trong khu vực để phối hợp phản ứng. Indonesia chọn không áp dụng biện pháp đối ứng mà tập trung vào đàm phán với Mỹ và tìm kiếm các thị trường thay thế ở châu Âu.

Canada đã tận dụng lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do với EU (CETA) để tăng xuất khẩu sang châu Âu với thuế suất ưu đãi hoặc bằng 0; đồng thời đẩy mạnh quan hệ với các nước CPTPP như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam – những thị trường đang có nhu cầu lớn về thủy sản cao cấp.

Ông Scott Bessent, Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ kêu gọi các nước tiến hành đàm phán dựa trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tập trung vào việc xúc tiến thương mại, nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực từ các mức thuế đối ứng và duy trì sự ổn định trong quan hệ thương mại quốc tế.​

Tuấn Minh

You may also like...

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *