Xuất khẩu thủy sản ở ĐBSCL: Nỗ lực vượt khó

Nhiều khó khăn

Thời gian qua, xuất khẩu cá tra là thế mạnh của các tỉnh, thành ÐBSCL. Thế nhưng từ đầu năm 2020 đến nay, tình hình sản xuất và tiêu thụ ảm đạm khiến người nuôi cùng doanh nghiệp khốn khó. Ông Cao Lương Tri, chủ hộ nuôi cá tra ở TP Long Xuyên (An Giang), cho biết: “Gia đình tôi còn gần 500 tấn cá tra hiện đã quá lứa rất lâu, bình quân cá có trọng lượng tới 1,5-2 kg/con, nhưng chưa thể bán được bởi các nhà máy chậm thu mua. Tình hình này càng kéo dài, người nuôi càng lỗ nặng”. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) các tỉnh, thành vùng ÐBSCL cho hay, hiện nay giá cá tra tiếp tục duy trì ở mức thấp khi dao động ở mức 17.500-19.000 đồng/kg (tùy loại), với mức này người nuôi chịu lỗ từ 3.500-5.000 đồng/kg.

Ngành nuôi trồng, chế biến tôm xuất khẩu hy vọng tăng tốc vào cuối năm.

Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), năm 2020, toàn vùng ÐBSCL dự kiến thả nuôi khoảng 6.600ha cá tra, với sản lượng ước khoảng 1,42 triệu tấn. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, giá cá tra thương phẩm dao động ở mức từ 19.000 đồng/kg trở xuống, thấp hơn chi phí giá thành nhiều. Nguyên nhân khiến cá tra sụt giảm là do diện tích thả nuôi tăng nhanh, trong khi đầu ra gặp khó khăn bởi ảnh hưởng dịch COVID-19 diễn biến phức tạp ở nhiều nước trên thế giới.

Ông Dương Nghĩa Quốc, Chủ tịch Hiệp hội Cá tra Việt Nam, bày tỏ lo lắng: “Giá cá tra nguyên liệu đã sụt giảm từ giữa năm 2019 kéo dài đến tận hôm nay khiến người nuôi thua lỗ; vì vậy có rất nhiều hộ đã “treo ao” bởi không còn khả năng cầm cự. Ðiều đáng lo không kém là tình hình dịch COVID-19 ở nhiều nước còn phức tạp nên việc xuất khẩu ì ạch. Thế là nhiều doanh nghiệp chế biến đang “ôm” lượng lớn cá tra tồn kho mà chưa thể xuất được”.

Ông Doãn Tới, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty CP Nam Việt, cho biết: “Ngành cá tra đang trong giai đoạn khó từ trong nước lẫn xuất khẩu, nhưng Nam Việt vẫn nỗ lực duy trì sản xuất nhằm giải quyết việc làm cho hàng ngàn công nhân, không để ai nghỉ việc. Tuy nhiên, nếu thị trường xuất khẩu còn ảm đạm kéo dài thì nhiều doanh nghiệp sẽ đuối sức”.

Ðối với con tôm, dù dễ thở hơn nhưng cũng gặp những trở ngại nhất định. Theo Bộ NN&PTNT, điều kiện nuôi tôm ở ÐBSCL những tháng đầu năm 2020 không thuận lợi bởi hạn mặn gay gắt, cộng với xuất hiện một số cơn mưa trái mùa và biến động nhiệt độ ngày đêm khá cao làm ảnh hưởng nhiều vùng nuôi. Ngoài ra, tình hình xuất khẩu tôm cũng lắm gian nan bởi dịch COVID-19 bùng phát ở nhiều nước trên thế giới gây ảnh hưởng.

Các doanh nghiệp xuất khẩu nhìn nhận, việc tiêu thụ tôm ở thị trường Trung Quốc sụt giảm do tác động của dịch COVID-19. Mặt khác, thông thường hằng năm những khách hàng truyền thống ở châu Âu sang Việt Nam thăm nhà máy và xem xét ký hợp đồng mới. Tuy nhiên, đến nay không ít khách hàng đã hủy lịch sang, đồng nghĩa với hợp đồng mới bị giảm. Do tình hình xuất khẩu chậm, đã kéo giá tôm nguyên liệu ở ÐBSCL giảm khoảng 20% so cùng kỳ…

Sẽ phục hồi và tăng tốc

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho rằng xuất khẩu tôm thời điểm đầu năm chựng lại do ảnh hưởng dịch COVID-19, tuy nhiên theo dự báo sẽ phục hồi sau đó và tăng tốc vào thời điểm cuối năm 2020. VASEP phân tích, xuất khẩu tôm sang EU năm 2019 dù có giảm, song cần thấy rằng EVFTA có hiệu lực vào tháng 8-2020, khi đó thuế nhập khẩu hầu hết tôm nguyên liệu vào EU được giảm từ mức thuế cơ bản 12-20% xuống 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực; thuế nhập khẩu tôm chế biến cũng về 0% sau 7 năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Lợi thế là EU thu nhập đầu người cao, sản phẩm càng nhiều tiện ích càng được ưa chuộng, phân khúc thị trường rộng nên đủ để các doanh nghiệp Việt Nam lựa chọn hệ thống phân phối. Từ đó, dự báo xuất khẩu tôm sang EU tới đây sẽ khả quan nhờ ưu đãi thuế quan và chúng ta có khả năng cạnh tranh tốt hơn so với Ấn Ðộ, Thái Lan và Indonesia. Năm 2020, xuất khẩu tôm của Việt Nam vào EU tăng khoảng 15%, đạt 800 triệu USD.

Ông Trương Ðình Hòe, Tổng Thư ký VASEP, lưu ý thêm về lợi thế cạnh tranh nhập khẩu vào EU so với các nước khác, có thể thấy lợi thế rõ rệt là tôm sú, tôm thẻ chân trắng đông lạnh xuất khẩu, khi tôm sú được giảm từ mức thuế 4,2% về 0% ngay khi hiệp định có hiệu lực, tôm thẻ đông lạnh sẽ giảm dần về 0% sau 5 năm. Tuy nhiên, các doanh nghiệp và các địa phương cần quan tâm việc EU cấm sử dụng chất Ethoxyquin trong thức ăn thủy sản; các nhà máy phải có trách nhiệm và biện pháp kiểm tra tồn dư Ethoxyquin nhằm đảm bảo không có chất này. Ngoài ra, các nhà máy phải cho biết nếu không sử dụng Ethoxyquin thì bên cung cấp thức ăn sử dụng chất nào để chống ôxy hóa và chất mới này có chứa thành phần độc hại nào hay không? Quy định mới này sẽ gây thêm áp lực về ghi nhận và truy xuất nguồn gốc, bên cạnh đó việc thay thế thành phần chống ôxy hóa trong thức ăn có thể khiến cho giá thức ăn và giá thành sản xuất tăng lên.

Tại Cà Mau, địa phương có diện tích nuôi tôm lớn nhất cả nước với hơn 280.000ha, sản lượng hơn 190.000 tấn/năm, kim ngạch xuất khẩu khoảng 1 tỉ USD/năm… Sở NN&PTNT tỉnh này nhận định, cùng với những thuận lợi khi EVFTA có hiệu lực, thì dự báo nhu cầu tiêu thụ tôm trên thế giới sẽ tăng, trong khi một số nước nuôi tôm bị thiệt hại, sẽ tạo cơ hội cho xuất khẩu tôm Việt Nam tăng tốc. Song, cũng cần ứng phó với những rào cản từ EVFTA như nhanh chóng nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo việc truy xuất nguồn gốc… Do đó, tỉnh Cà Mau yêu cầu các huyện, hợp tác xã, người nuôi cần đẩy mạnh áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đạt chứng nhận tiêu chuẩn nuôi an toàn (VietGAP, Global GAP, ASC…) theo quy định.

Về xuất khẩu cá tra, Tổng cục Thủy sản đề nghị các doanh nghiệp chế biến cần chuẩn bị tốt nội lực để tận dụng cơ hội xuất khẩu sang thị trường EU, sau khi việc cắt giảm những dòng thuế liên quan đến cá tra có hiệu lực. Xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử đối với chuỗi xuất khẩu, nhà máy chế biển, cơ sở nuôi, ao nuôi đã được cấp mã số nhằm minh bạch thông tin. Hệ thống truy xuất điện tử này của doanh nghiệp chế biến có thể kết nối với hệ thống quản lý ao nuôi của cơ quan quản lý thủy sản. Khuyến khích người nuôi, doanh nghiệp chế biến tham gia chuỗi liên kết, để sản xuất theo tín hiệu thị trường, tránh tình trạng dư nguồn cung cá nguyên liệu hoặc thiếu nguyên liệu phục vụ xuất khẩu.

Theo ông Dương Nghĩa Quốc, Chủ tịch Hiệp hội Cá tra Việt Nam, ở thị trường EU cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến cho doanh nghiệp và người nuôi về các quy định tại EVFTA. Việc thúc đẩy cải thiện chất lượng ngành hàng cá tra được tập trung vào chất lượng con giống, cần tăng cường áp dụng công nghệ mới vào công đoạn ương dưỡng cá giống như: sử dụng chế phẩm sinh học, vắc-xin, ương trong nhà mát để tăng sức đề kháng cho cá giống, nâng cao tỷ lệ sống và hiệu quả sản xuất. Khuyến khích các doanh nghiệp có tiềm lực tham gia chọn tạo, sản xuất cá tra bố mẹ, hậu bị, giống có chất lượng…

Theo ông Dương Nghĩa Quốc, để ngành cá tra phát triển bền vững và thích ứng trước những cơ hội cũng như thách thức khi EVFTA có hiệu lực, thì việc cải thiện chất lượng, hình ảnh sản phẩm và xây dựng thương hiệu là rất cần thiết. Ngành chức năng cần hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường gắn với xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cá tra chất lượng cao. Tính toán xây dựng dòng sản phẩm cá tra phi lê chất lượng cao; đa dạng hóa sản phẩm, phát triển thêm nhiều dòng sản phẩm giá trị gia tăng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường EU…

You may also like...

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *