Protein ngô lên men thử nghiệm thành công trên cá hồi vân
Thử nghiệm cho ăn kéo dài 12 tuần trên cá hồi vân (Oncorhynchus mykiss) với protein ngô lên men (CPF) của Green Plains diễn ra tại phòng thí nghiệm Aquafeed AquaLab ở Shenandoah, thuộc bang Iowa, Mỹ. Sau khi đạt trọng lượng trung bình 200 g, cá hồi được đưa vào 21 bể thử nghiệm, mật độ 30 con/bể.
Mỗi bể áp dụng ngẫu nhiên một chế độ ăn và lặp lại 3 lần. Chế độ đối chứng là một loại thức ăn thương mại không chứa ngô và khá phổ biển trên thị trường thức ăn cho cá hồi Bắc Mỹ. Sáu chế độ ăn thử nghiệm gồm năm khẩu phần protein ngô lên men (60% protein) CFP 60 ở các mức bổ sung 12%, 15%, 18% và 21%; và một khẩu phần 8% gluten ngô (CGM). Cả sáu nghiệm thức này được xây dựng theo công thức cung cấp 42% protein thô và 16% lipid thô; trong khi khẩu phần đối chứng cung cấp 45% protein thô và 14% lipid thô. Cho cá ăn theo phương pháp thủ công đến khi no theo cữ 2 lần/ngày. Tiến hành theo dõi trọng lượng trung bình, tốc độ tăng trưởng và lượng ăn hàng hàng ngày của cá. Các chỉ số khác gồm soma, hematocrit, chiều dài và trọng lượng phân bổ, điểm Hunter Color fillet và caroteinoid fillet được tiến hành sau khi kết thúc thử nghiệm.
Kết quả cho thấy, tăng trưởng của các nhóm cá hồi CFP60 đều tốt như nhau. Trước đây, sản phẩm protein ngô lên men (50% protein) CFP50 cũng được thử nghiệm thành công trên cá hồi vân nên kết quả này không gây ngạc nhiên. Nhóm cá hồi được cho ăn bổ sung CPF đều cho kết quả tích cực, tương đương chế độ ăn đối chứng. Nhà sản xuất khuyến nghị tỷ lệ bổ sung CFP60 phù hợp với công thức thức ăn của cá hồi vân dao động 12 – 21% trong tổng khẩu phần.
Chế độ ăn 8CGM được đưa vào nghiên cứu này vì nguồn protein từ gluten ngô cũng được sử dụng rộng rãi cho nhiều loài cá nuôi. Thông thường, mức bổ sung gluten ngô giới hạn ở mức cao 4 – 8% trong tổng khẩu phần công thức thức ăn thủy sản để làm cho sắc tố fillet cá tươi sáng hơn thông qua hàm lượng carotenoid dồi dào. Ở thử nghiệm này, cá hồi vân được cho ăn khẩu phần 8CGM không phát triển tốt với thông số tăng trưởng thấp nhất so với nhóm cá ăn khẩu phần thương mại và khẩu phần 15% CFP60. Màu sắc fillet cá hồi cuối thử nghiệm được đánh giá qua phân tích tổng carotenoid của thức ăn thử nghiệm cũng như các mẫu fillet đã đồng nhất.
Theo phân tích, lượng carotenoid trong mô của cá hồi có xu hướng tỷ lệ thuận với mức độ carotenoid trong thức ăn. Cụ thể, tỷ lệ bổ sung CFP càng tăng, thì lượng carotenoid trong fillet cá hồi cũng cao hơn. Tuy nhiên, lượng carotenoid trong fillet cá hồi CFP60 thấp hơn so nhóm cá ăn khẩu phần thương mại và khẩu phần 8CGM. Điều này cũng cho thấy rõ ràng CFP60 tác động đến màu sắc fillet cá hồi thấp hơn đáng kể so với gluten ngô trong khẩu phần 8CGM.
Nhà sản xuất Green Plains đã cách mạng hóa ngành công nghiệp ethanol khi tạo ra nguyên liệu thức ăn thủy sản CFP cung cấp 50% và 60% protein thô. Sản phẩm CFP50 đã được nghiên cứu rộng rãi và ghi nhận nhiều thành công trong hơn 25 thử nghiệm cho ăn trên nhiều loài cá và tôm biển. Thử nghiệm về CFP60 đã chứng minh phụ gia này là nguồn cung protein chính cho cá hồi vân ở mức bổ sung 12 – 21% tổng khẩu phần ăn vì hiệu suất nuôi cá ở tất cả các mức bổ sung CFP đều tương đương hiệu suất của khẩu phần đối chứng và khẩu phần CGM. Thử nghiệm này cũng chứng minh tác động tạo màu của gluten ngô, ngay cả ở mức độ bổ sung thấp. Ngược lại, màu sắc của fillet cá hồi không bị ảnh hưởng bởi mức bổ sung CFP60 dù tỷ lệ bổ sung lên tới 18% trong khẩu phần.
Vũ Đức
(Theo Aquafeed)
Bình luận gần đây