Chung tay để ngành tôm vượt khó
Chưa hết khó
Theo báo cáo của Cục Thủy sản tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển ngành tôm năm 2024, tuy diện tích thả nuôi năm 2023 tương đương với năm 2022 (khoảng 737.000 ha) nhưng sản lượng tôm thu hoạch tăng 5,5% so năm 2022 khi đạt 1,12 triệu tấn. Riêng kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 3,45 tỷ USD, giảm 19,8% so cùng kỳ. Đối với vụ tôm nước lợ năm 2024, Cục Thủy sản dự báo, ngành tôm chẳng những chưa hết khó, mà khả năng khó khăn sẽ càng chồng chất hơn so với vụ tôm năm 2023.
Do đó, dù chỉ tiêu kế hoạch về diện tích, sản lượng của vụ tôm nước lợ năm 2024 chỉ tương đương với năm 2023 nhưng theo nhận định của Cục Thủy sản, nhiệm vụ của ngành tôm sẽ rất nặng nề nếu muốn đạt được mục tiêu kế hoạch trên. Theo đó, Bộ NN&PTNT đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp về: quản lý sản xuất giống và thức ăn thủy sản; về quản lý nuôi tôm nước lợ; về tổ chức sản xuất…
Ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, nhận xét thêm, dù sản lượng tôm của Cà Mau nói riêng và cả nước nói chung đều có tăng nhưng mức tăng này lại không mang đến niềm vui hay ý nghĩa cho cả ngành tôm. Ông Sử phân tích: “Năm nay, sản lượng tôm cũng nhiều nhưng lợi nhuận của người nuôi và doanh nghiệp thì rất thấp, thậm chí nhiều người nuôi bị thua lỗ. Điều đó cho thấy, tính hiệu quả của vụ nuôi lẫn xuất khẩu tôm năm 2023 là không cao. Một trong những nguyên nhân chính là giá thành tôm nuôi của chúng ta quá cao, trong khi giá trong nước lẫn xuất khẩu năm nay đều giảm mạnh. Ngay cả như Cà Mau có tỷ lệ diện tích nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến, tôm – lúa, tôm – rừng rất lớn nhưng vẫn chưa thoát khó”.
Đồng tình với ông Sử, ông Phạm Văn Thiều, Chủ tịch UBND tỉnh Bạc Liêu, thẳng thắn nhìn nhận ngành tôm đang ngày càng gặp nhiều trở ngại. Ông Thiều chia sẻ: “Con tôm là chủ lực trong phát triển nông nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung của tỉnh Bạc Liêu nhưng do người nuôi chưa mạnh dạn thay đổi tư duy từ sản xuất riêng lẻ sang tư duy liên kết, nên dù hàng năm Bạc Liêu đóng góp 20 – 21% vào tổng sản lượng tôm cả nước, tuy nhiên, người nuôi tôm vẫn còn hết sức khó khăn. Trong khi đó, các thách thức đến từ môi trường, thời tiết, dịch bệnh, thị trường… đang ngày một lớn hơn, tác động mạnh mẽ và tiêu cực hơn đến mục tiêu phát triển bền vững của ngành tôm”.
Tìm giải pháp thích ứng
Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ phát triển ngành tôm năm 2024, lãnh đạo các địa phương và các đơn vị, doanh nghiệp đã có nhiều tham luận, trao đổi, đánh giá kết quả sản xuất, những thuận lợi, khó khăn, thách thức của hoạt động sản xuất, nuôi tôm nước lợ và bàn các giải pháp thích ứng có hiệu quả trong tình hình mới. Một số giải pháp được đưa ra là: Nâng cao chất lượng tôm giống, tôm thương phẩm; bảo vệ môi trường, xây dựng các vùng nuôi, cơ sở an toàn dịch bệnh. Nhất là cần đẩy mạnh sự liên kết, chế biến tôm nhằm giảm giá thành sản xuất.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác tổ chức sản xuất, ông Sử cho biết, Cà Mau đang tập trung phát triển kinh tế hợp tác trong lĩnh vực nuôi tôm để giảm dần sản xuất nhỏ lẻ, manh mún nhằm tạo điều kiện đưa khoa học – kỹ thuật vào nghề nuôi giúp hạn chế rủi ro, tăng tỷ lệ thành công, từng bước giảm giá thành tôm nuôi. “Việc giảm giá thành tôm nuôi là vấn đề lớn, mà theo tôi giải pháp trọng tâm hiện nay chính là công tác tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, sau đó mới tính đến chuyện liên kết chuỗi, bởi nếu còn nhỏ lẻ, manh mún thì chúng ta sẽ không tìm được lối ra cho liên kết chuỗi được”, ông Sử chia sẻ thêm. Còn theo ông Phạm Văn Thiều: “Chúng ta phải cùng hành động, chuyển đổi mạnh mẽ hơn nữa, nhất là về tư duy sản xuất, để góp phần tháo gỡ khó khăn, giải quyết dần những tồn tại của ngành tôm”.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến ghi nhận và đánh giá cao sự nỗ lực vượt qua những khó khăn, trở ngại để hoàn thành các mục tiêu sản xuất và xuất khẩu tôm nước lợ trong năm qua của các địa phương, góp phần đưa ngành tôm về đích an toàn.
Đánh giá về khó khăn, thách thức của ngành tôm, Thứ trưởng cho rằng con giống tuy chiếm tỷ lệ không cao trong giá thành, nhưng một khi chất lượng con giống kém, sẽ làm cho giá thành tôm nuôi tăng cao, vì tỷ lệ sống thấp và phát sinh thêm nhiều chi phí khác. Do đó, các đơn vị chuyên môn cần thanh tra, kiểm tra chặt chẽ hơn nữa để đảm bảo con giống khi đến ao nuôi phải là con giống đạt chất lượng.
“Đề nghị Cục Thủy sản tăng cường quản lý và kiểm soát chất lượng giống tôm; tổ chức kiểm tra, đánh giá, chứng nhận đủ điều kiện cho cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống tôm, cơ sở sản xuất thức ăn, sản phẩm xử lý cải tạo môi trường trong nuôi trồng thủy sản; xử lý nghiêm các cơ sở không tuân thủ quy định. Các địa phương thực hiện tốt công tác quản lý và tổ chức kiểm tra, kiểm soát điều kiện cơ sở sản xuất và chất lượng giống, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản. Đảm bảo nâng cao tỷ lệ nuôi thành công, giảm rủi ro và giảm chi phí, giá thành sản xuất. Chúng ta phải kiên quyết, kiên trì, phải làm đến nơi đến chốn thì mới có kết quả tốt”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhấn mạnh.
ÔNG PHÙNG ĐỨC TIẾN, THỨ TRƯỞNG BỘ NN&PTNT
Quan tâm nhiều hơn đến tổ chức sản xuất
Các địa phương quan tâm nhiều hơn đến tổ chức sản xuất, liên kết chuỗi sản xuất… Đặc biệt là các ngành và địa phương, cần quan tâm công tác quản lý, kiểm tra chất lượng nguồn giống, đảm bảo nguồn giống đến ao nuôi phải đạt chất lượng cao để nâng cao tỷ lệ nuôi thành công, giảm rủi ro và giảm chi phí, giá thành sản xuất. Ngoài ra, các địa phương cũng cần quan tâm đầu tư hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, phục vụ phát triển vùng nuôi, logistics, hướng đến sản xuất xanh, ít phát thải và ứng dụng công nghệ số trong nuôi trồng thủy sản.
ÔNG VƯƠNG QUỐC NAM, PHÓ CHỦ TỊCH UBND TỈNH SÓC TRĂNG
Kiểm soát được nguồn cung con giống
Vấn đề trước mắt là làm sao kiểm soát được nguồn cung con giống để có được nguồn giống tốt đến tay người nuôi. Giá thành tôm nuôi của chúng ta cao có phần rất lớn đến từ chất lượng con giống, nên vấn đề này cần được ưu tiên quan tâm nhiều hơn. Vấn đề thứ hai là nguồn vốn tín dụng cho người nuôi chuyển đổi mô hình và vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
>> Năm 2024, ngành tôm Việt Nam đặt mục tiêu diện tích nuôi 737.000 ha (tôm sú 622.000 ha, tôm thẻ chân trắng 115.000 ha). Sản lượng 1.065.000 tấn, trong đó tôm sú 300.000 tấn, tôm thẻ chân trắng 765.000 tấn. Kim ngạch xuất khẩu 4-4,3 tỷ USD.
Xuân Trường
Bình luận gần đây